Đại thắng mùa xuân năm 1975 - đi vào lịch sử như một chiến công hiển hách nhất của dân tộc Việt Nam và nhân loại tiến bộ trong thế kỷ XX. Nó chứng tỏ một sự thật là: Trong thời đại ngày nay, một dân tộc dù nhỏ, có nền kinh tế chưa phát triển như Việt Nam nhưng có chính nghĩa, có trí tuệ thông minh và tư duy sáng tạo, thì hoàn toàn có thể đánh thắng bất cứ kẻ thù xâm lược nào, dù chúng có to lớn và tàn bạo đến đâu.
Vào đầu thập niên 70 của thế kỷ XX, do phải chịu thất bại nặng nề trên chiến trường và bế tắc trong việc hoạch định phương thức thực hiện chiến tranh và do áp lực mạnh mẽ của phong trào phản đối cuộc chiến tranh phi nghĩa của Mỹ ở Việt Nam nên Mỹ buộc phải ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam và rút quân về nước. Tuy nhiên, do bản chất xâm lược, hiếu chiến, tàn bạo và nham hiểm, Mỹ vẫn tiếp tục viện trợ kinh tế, quân sự cho ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn để thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.
Ngày 27-1-1973, Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết. Mỹ và quân đồng minh buộc phải rút hết quân về nước. Nhưng, với bản chất ngoan cố và hiếu chiến, ngụy quyền Sài Gòn dưới sự viện trợ, chỉ đạo của Mỹ ngang nhiên phá hoại hiệp định. Chúng huy động hầu như toàn bộ lực lượng tiến hành chiến dịch “tràn ngập lãnh thổ”, mở các cuộc hành quân “bình định, lấn chiếm” hòng tiêu diệt LLVT cách mạng, xóa bỏ vùng giải phóng, xóa bỏ chính quyền nhân dân, đứng đầu là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Thực chất là tiếp tục chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.
Trước âm mưu và hành động chiến tranh của địch, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 21 (tháng 7-1973) nêu rõ, cách mạng miền Nam có thể phát triển theo hai khả năng: (1) Ta tích cực đấu tranh trên 3 mặt trận chính trị, quân sự và ngoại giao, từng bước buộc địch phải thi hành Hiệp định Paris về Việt Nam, hòa bình được lập lại thật sự, cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam nhằm hoàn thành độc lập, dân chủ tuy còn lâu dài, khó khăn, phức tạp, nhưng ngày càng phát triển và ở thế tiến lên mạnh mẽ; (2) Mỹ, ngụy tiếp tục vi phạm, phá hoại Hiệp định Paris, xung đột quân sự có thể ngày càng tăng, cường độ và quy mô chiến tranh ngày càng lớn, ta lại phải tiến hành chiến tranh cách mạng gay go, quyết liệt để đánh bại địch, giành thắng lợi hoàn toàn. Hai khả năng diễn biến nói trên của tình hình miền Nam đều đang tồn tại và đang trong quá trình phát triển, song dù khả năng nào, “con đường của cách mạng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình hình nào, ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên”. Yêu cầu cơ bản và bức thiết của cách mạng miền Nam lúc này là giành dân, giành quyền làm chủ và phát triển thực lực cách mạng. Thực hiện chủ trương của Đảng, quân và dân ta trên chiến trường miền Nam kiên quyết đấu tranh đập tan những cuộc hành quân lấn chiếm và bình định của địch, bảo vệ vững chắc vùng giải phóng.
Cuối năm 1974, đầu năm 1975, cục diện chiến tranh có sự chuyển biến mạnh mẽ, mau lẹ theo hướng ngày càng có lợi cho cách mạng. Ta liên tiếp mở những đợt tiến công trên nhiều địa bàn trọng điểm tiêu diệt sinh lực địch, tạo thêm những bàn đạp vững chắc; tiêu biểu như Chiến thắng Thượng Đức “đánh tan Sư đoàn dù” (cuối năm 1974) chứng tỏ khả năng chiến đấu của chủ lực ta đã hơn hẳn quân chủ lực cơ động của địch; Chiến thắng Đường 14-Phước Long (từ ngày 13-12-1974 đến 6-1-1975) giải phóng toàn tỉnh Phước Long trở thành “đòn trinh sát chiến lược” cho thấy khả năng Mỹ sẽ không can thiệp trở lại bằng quân sự tại miền Nam Việt Nam...
Xe tăng quân Giải phóng tiến vào chiếm Dinh Độc Lập, trưa 30-4-1975. Ảnh: TTXVN
Trước tình hình đó, Bộ Chính trị họp, thảo luận kế hoạch giải phóng miền Nam. Hội nghị nhận định: Đây là thời cơ thuận lợi nhất để nhân dân ta giải phóng miền Nam, giành thắng lợi trọn vẹn. Hai mươi năm nhân dân cả nước chiến đấu mới tạo được thời cơ này. “Ngoài thời cơ này, không có thời cơ nào khác. Nếu để chậm mươi, mười lăm năm nữa, bọn ngụy gượng dậy được, các thế lực xâm lược được hồi phục... thì tình hình sẽ phức tạp vô cùng”. Trên cơ sở nhận diện đúng thời cơ, Bộ Chính trị hạ quyết tâm chiến lược: “Động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy cuối cùng, đưa chiến tranh cách mạng phát triển đến mức cao nhất, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân ngụy, đánh chiếm Sài Gòn, sào huyệt trung tâm của địch cũng như tất cả các thành thị khác, đánh đổ ngụy quyền ở trung ương và các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân, giải phóng hoàn toàn miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thống nhất nước nhà”.
Bộ Chính trị chủ trương giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976, chia làm hai bước: Bước 1 (năm 1975), tranh thủ thời cơ, bất ngờ mở cuộc tiến công lớn và rộng khắp. Bước 2 (năm 1976), thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa giải phóng hoàn toàn miền Nam, giành toàn thắng. Tuy nhiên, Bộ Chính trị cũng chỉ rõ: Nếu thời cơ đến sớm hơn, vào đầu hoặc cuối năm 1975, thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975. Phải tranh thủ đánh thắng nhanh để giảm bớt sự thiệt hại về người và của cho nhân dân, giảm bớt sự tàn phá của chiến tranh.
Quân ủy Trung ương theo dõi diễn biến Chiến dịch Hồ Chí Minh, tháng 4-1975. Ảnh tư liệu
Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng (từ ngày 18-12-1974 đến 8-1-1975) hạ quyết tâm giải phóng miền Nam là kết quả của sự chuẩn bị chiến lược chủ động, dũng cảm, sáng tạo, công phu, kiên trì, bền bỉ trên tất cả các mặt chính trị, quân sự, ngoại giao, tiềm lực hậu phương và tiền tuyến, thế trận và lòng người... trong thời gian dài, thể hiện trí tuệ, bản lĩnh Việt Nam trong “cuộc đụng đầu lịch sử” với đế quốc Mỹ và lực lượng phản động, tay sai; cho thấy tư duy nhạy bén, khả năng nhận diện, nắm bắt thời cơ và hạ quyết tâm chiến lược kịp thời, chính xác.
Ngày 25-3-1975, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương đã họp bàn, khẳng định: “Cuộc tổng tiến công chiến lược của ta đã bắt đầu với Chiến dịch Tây Nguyên. Thời cơ chiến lược mới đã đến”, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng miền Nam, từ đó thống nhất quyết nghị: Tập trung nhanh nhất binh lực, vật lực giải phóng miền Nam trước mùa mưa (khoảng giữa tháng 5-1975). Kế hoạch một năm tiếp tục được rút xuống còn 5 tháng. Bộ Chính trị hạ quyết tâm mở chiến dịch lịch sử có ý nghĩa quyết định với quy mô lớn nhất: Chiến dịch Tổng công kích và nổi dậy giải phóng Sài Gòn. Nhưng muốn đi đến đòn quyết chiến chiến lược ấy, Bộ Chính trị chỉ đạo: Dứt điểm giải phóng Thừa Thiên-Huế; đồng thời tiến công Đà Nẵng kịp thời nhất, nhanh chóng nhất, táo bạo nhất, bất ngờ nhất và chắc thắng.
1. Diễn biến của cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975
Một là, chiến dịch Tây Nguyên (04/3/1975 - 03/4/1975)
Được bắt đầu bằng cuộc tiến công thần tốc, bất ngờ vào Buôn Mê Thuột (yết hầu mang tính chiến lược của địch ở Cao Nguyên), chiến dịch Tây Nguyên đã giáng đòn chí mạng và tiêu diệt toàn bộ bộ phận sinh lực địch quan trọng nhất ở Tây Nguyên, làm cho Mỹ - Ngụy bất ngờ, choáng váng và rơi vào lúng túng đối phó; sau đó, mọi sự kháng cự và ứng cứu của địch đều bị quân giải phóng dập tan, buộc địch rơi vào sai lầm chiến lược “tháo chạy khỏi Tây Nguyên”.
Hai là, chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng (21/3/1975 - 29/3/1975)
Sau khi “tháo chạy khỏi Tây Nguyên”, ngụy quân - ngụy quyền Sài Gòn rơi vào tình trạng hoang mang và rối loạn, đối phó lúng túng, tập trung quân và co cụm, cố thủ ở Huế và Đà Nẵng để chờ đợi viện binh. Trong khi đó, quân ta tranh thủ điều kiện thuận lợi, nhanh chóng tiến công, giải phóng Huế (20/3/1975); và ngay sau đó phát triển thành chiến dịch với ba cánh quân lớn (từ ba hướng: Bắc, Tây và Nam) tạo thành thế hợp vây đánh trực diện vào Đà Nẵng, phá tan thế co cụm, cố thủ của địch (chỉ trong một tuần, ta đã tiêu diệt và làm tan rã hơn 100.000 quân địch), làm thay đổi tương quan so sánh lực lượng trên chiến trường, tạo ra cú sốc và áp lực “bại trận không thể cứu vãn” cho ngụy quân - ngụy quyền Sài Gòn.
Ba là, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (26/4/1975 - 30/4/1975)
Căn cứ vào những chuyển biến hết sức mau lẹ từ chiến trường, ngày 31-3-1975, Bộ Chính trị họp bàn, nhận định: Cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam phát triển nhảy vọt “một ngày bằng hai mươi năm”, thời cơ để mở tổng tiến công và nổi dậy tại Sài Gòn-Gia Định đã chín muồi. Từ đó, Bộ Chính trị quyết định: “Chúng ta phải nắm vững thời cơ chiến lược, quyết tâm thực hiện tổng tiến công và nổi dậy, kết thúc thắng lợi chiến tranh giải phóng trong thời gian ngắn nhất. Tốt hơn cả là bắt đầu và kết thúc trong tháng Tư năm nay, không để chậm. Phải hành động “thần tốc, táo bạo, bất ngờ”. Phải tiến công ngay lúc địch hoang mang, suy sụp. Tập trung lực lượng lớn hơn nữa vào những mục tiêu chủ yếu trên từng hướng, trong từng lúc”. Kế hoạch 5 tháng tiếp tục được rút xuống còn 4 tháng.
Ngày 07/4/1975, Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp ra lệnh cho tất cả các đơn vị: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ, từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng”. Mệnh lệnh trên như “lời hịch tướng sĩ”, tiếng gọi của non sông, thúc giục toàn quân tăng tốc hơn nữa cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Ngày 9-4-1975, quân ta tiến công Xuân Lộc-tuyến phòng thủ trọng yếu bảo vệ Sài Gòn từ phía Đông của ngụy quân. Ngày 16-4-1975, quân ta đập tan tuyến phòng thủ Phan Rang. Ngày 14-4-1975, Bộ Chính trị phê chuẩn chiến dịch giải phóng Sài Gòn-Gia Định lấy tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh. Ngày 21-4-1975, quân địch ở Xuân Lộc tháo chạy. Ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn ngày càng rơi vào tình trạng hoang mang. Mỹ lập cầu hàng không viện trợ khẩn cấp cho ngụy quyền, ngụy quân nhằm cứu vãn sự sụp đổ hoàn toàn, hy vọng tìm kiếm một giải pháp qua đàm phán. Ngày 22-4-1975, Bộ Chính trị họp bàn, phát lệnh: “Thời cơ để mở cuộc tổng tiến công về quân sự và chính trị vào Sài Gòn đã chín muồi. Ta cần tranh thủ từng ngày để kịp thời phát động tiến công. Hành động trong lúc này là bảo đảm chắc chắn nhất để giành thắng lợi hoàn toàn. Nếu để chậm sẽ không có lợi cả về quân sự và chính trị”.
Ngày 26-4-1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh chính thức bắt đầu. Tất cả các cánh quân của ta, bao gồm 4 quân đoàn (1, 2, 3, 4) và Đoàn 232 (tương đương quân đoàn) lần lượt đập tan các tuyến phòng thủ vòng ngoài, đồng thời hình thành các mũi thọc sâu đánh chiếm 5 mục tiêu trọng yếu trong nội đô Sài Gòn (dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham mưu ngụy, sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ tư lệnh Biệt khu thủ đô, Tổng nha cảnh sát ngụy). Trưa 30-4-1975, Quân giải phóng tiến vào dinh Độc Lập, bắt toàn bộ nội các ngụy quyền Sài Gòn, buộc Tổng thống ngụy Dương Văn Minh phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng.
Bộ đội Quân đoàn 3 đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất ngày 30-4-1975. Ảnh tư liệu
Đại thắng mùa xuân 1975 còn là chiến thắng của nghệ thuật quân sự đặc sắc, đỉnh cao Việt Nam. Đó là nghệ thuật tạo ưu thế lực lượng, bảo đảm đánh địch trên thế mạnh, hình thành sức mạnh áp đảo trong chiến dịch. Khi địch còn ổn định, có tổ chức thì tập trung hơn địch ở trọng điểm, đánh có chuẩn bị, chắc thắng (Chiến dịch Tây Nguyên). Khi địch hoang mang rút chạy thì chớp thời cơ, đánh trong hành tiến (Huế, Đà Nẵng). Khi đánh vào sào huyệt cuối cùng của địch thì tập trung lực lượng ưu thế đến mức cao nhất, bảo đảm chắc thắng, thắng nhanh (Chiến dịch Hồ Chí Minh).
Trong các chiến dịch mùa xuân năm 1975, quân và dân ta đã vận dụng các hình thức chiến thuật rất linh hoạt như: Đánh cắt đường, tiến công địch trong các căn cứ, thị xã, thành phố lớn, vận dụng cả trong trường hợp có thời gian chuẩn bị, chuẩn bị gấp và tiến công trong hành tiến, vận động tiến công, đánh địch đổ bộ đường không, truy kích... Quân và dân ta đã bày mưu lập kế, điều khiển địch theo ý định của ta, lừa nhử địch vào kế của ta mà đánh, đánh cả trong công sự và ngoài công sự, trên các loại địa hình (rừng núi, nông thôn đồng bằng, đô thị và hải đảo)... Với nghệ thuật chiến tranh nhân dân Việt Nam, được tạo lập từ bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam, Đại thắng mùa xuân 1975 là tất yếu lịch sử.
Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 có nhiều ý nghĩa đối với lịch sử dân tộc Việt Nam và đối với thế giới đương đại. Đó là thành công về sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt của Bộ Chính trị, Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Bộ chỉ huy Miền; thành công của tư tưởng Hồ Chí Minh “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” và “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”; thành công của đường lối kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang trên cả ba vùng chiến lược rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị; thành công của khối đoàn kết dân tộc: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công, đại thành công”…
Thắng lợi của Đại thắng mùa Xuân 1975 mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập, thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Từ thắng lợi này đã trở thành nguồn cổ vũ lớn lao, giúp chúng ta đã từng bước vượt qua khủng hoảng kinh tế, xã hội những năm đầu sau giải phóng đến đổi mới, hội nhập sâu rộng, quyết tâm xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.