Từ ngày 03 - 07/02/1930, tại Cửu Long, Hương Cảng (Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng sản: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn thành một đảng duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là tất yếu của lịch sử, sự phát triển của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam kết hợp với chủ nghĩa Mác - Lênin, là kết quả quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3/2/1930 (Ảnh: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia)
Ngay sau khi ra đời, Đảng đã lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến hành ba cao trào cách mạng: Cao trào cách mạng 1930 - 1931, với đỉnh cao là phong trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh, Cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936 - 1939) và Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939 - 1945), để đến năm 1945, khi thời cơ cách mạng chín muồi, Đảng đã lãnh đạo toàn thể dân tộc Việt Nam làm nên thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa vào ngày 02/9/1945. Tiếp đó, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân lần lượt đánh bại mọi âm mưu, kế hoạch xâm lược của kẻ thù, đặc biệt là thắng lợi trong Chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954 với đỉnh cao là Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ (năm 1954), chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Giai đoạn từ năm 1954 - 1975, đất nước bị chia cắt làm hai miền. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, miền Bắc vừa nỗ lực xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa dốc sức làm tròn nghĩa vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Với tinh thần “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, “không có gì quý hơn độc lập, tự do”; trên cơ sở đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng, với sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước vào ngày 30/4/1975.
Đất nước thống nhất, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta bắt tay vào khắc phục hậu quả chiến tranh, sau đó tiếp tục bước vào các cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhân dân ta đã giành thắng lợi, hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ biên giới của Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Từ năm 1986, Đảng lãnh đạo đất nước tiến hành công cuộc đổi mới và đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Từ một nước nghèo, lạc hậu, chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh, bị bao vây cấm vận, Việt Nam đã vượt lên phát triển kinh tế khá nhanh theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng. Nếu giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990) mức tăng trưởng GDP bình quân hàng năm chỉ đạt 4,4% thì giai đoạn 1991 - 1995, GDP bình quân đã tăng gấp đôi, đạt 8,2%/năm; các giai đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao; giai đoạn 2016 - 2019 đạt mức bình quân 6,8%. Đến năm 2021 Việt Nam trở thành quốc gia có quy mô dân số gần 100 triệu người và quy mô nền kinh tế 8,40 triệu tỷ đồng (trên 360 tỷ USD), GDP bình quân đầu người trên 3.680 USD/năm, sức mạnh quốc phòng an ninh được củng cố và tăng cường, chủ động xử lý thành công các tình huống không để bị động bất ngờ. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố và tăng cường; chính trị - xã hội ổn định; độc lập, chủ quyền quốc gia được giữ vững; quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng, vị thế Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp.
Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu, Việt Nam đã có quan hệ với 189 quốc gia và vùng lãnh thổ. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Ðại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã và đang đạt được một số kết quả tích cực. Số lượng đảng viên không ngừng gia tăng. Từ Đại hội lần thứ I (1935) Đảng ta có khoảng 500 đảng viên đến Đại hội lần thứ XIII (2021) Đảng ta có hơn 5,2 triệu đảng viên. Đa số cán bộ, đảng viên và Nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước, vào công cuộc đổi mới và triển vọng phát triển của đất nước. Nhiều đảng viên đã để lại nhiều tấm gương tốt thể hiện tinh thần tiên phong và tính gương mẫu.
Đ/c Nguyễn Mạnh Cường, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Bình Phước phát biểu tại Hội thảo “Bình Phước 25 năm hành trình khát vọng vươn lên” là sự kiện quan trọng chào mừng kỷ niệm 92 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, vừa khẳng định sự phát triển của tỉnh Bình Phước sau 25 năm tái lập vừa có tính định hướng phát triển trong giai đoạn tới
Đối với tỉnh Bình Phước, dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng bộ tỉnh, trong những năm qua, quân và dân tỉnh Bình Phước luôn trung thành với mục tiêu của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; nỗ lực vượt qua khó khăn, thử thách hoàn thành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng – an ninh, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Nhìn lại năm 2021, trong bối cảnh có những thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen, với tinh thần vượt khó, quyết tâm cao và sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, sự nỗ lực vượt bậc của các cấp, các ngành, Nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp trong tỉnh, nên kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Phước tiếp tục đạt được nhiều kết quả tích cực và đáng khích lệ: Tỉnh đã thực hiện tốt được mục tiêu kép “vừa phòng chống dịch bệnh, vừa duy trì sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế - xã hội”. Kết quả thực hiện 25 chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu đã được HĐND tỉnh thông qua có 20 chỉ tiêu đạt và vượt mức kế hoạch đề ra; 01 chỉ tiêu xấp xỉ đạt kế hoạch (số giường bệnh/vạn dân); 04 chỉ tiêu không đạt kế hoạch (tốc độ tăng trưởng GRDP, cơ cấu kinh tế, số doanh nghiệp thành lập mới trong năm, tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia). Tăng trưởng kinh tế năm 2021 đạt 6,32%. Tuy không đạt kế hoạch đề ra 8,5%, nhưng đây là mức tăng trưởng khá trong bối cảnh đại dịch Covid-19, là tỉnh có mức tăng trưởng cao nhất so với vùng Đông Nam bộ và đứng thứ 20 so với cả nước. GRDP bình quân đầu người đạt 74,9 triệu đồng, tăng 8,1% so với năm 2020. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 30.000 tỷ đồng, vượt 3,4% so với kế hoạch, tăng 25,73% so với năm 2020, chiếm khoảng 39% GRDP. Giải ngân vốn đầu tư công đến ngày 12/01/2022 là 4.861 tỷ đồng, đạt 135% so với chỉ tiêu Chính phủ giao và đạt 88,2% so với kế hoạch tỉnh giao, ước tỷ lệ giải ngân đến ngày 31/01/2022 đạt 95% kế hoạch tỉnh giao. Thu ngân sách nhà nước 13.675 tỷ đồng, đạt 180% dự toán Bộ Tài chính giao và đạt 105% dự toán HĐND tỉnh điều chỉnh, tăng 18% so với thực hiện năm 2020; chi ngân sách được 13.996 tỷ đồng (kế hoạch đề ra là 15.750 tỷ đồng), đạt 138% dự toán Bộ Tài chính giao và đạt 89% dự toán HĐND tỉnh điều chỉnh, tăng 13% so với thực hiện năm 2020. Kim ngạch xuất khẩu đạt 3 tỷ 750 triệu USD, tăng 22% so với cùng kỳ và đạt 120,9% so với kế hoạch năm. Kim ngạch nhập khẩu đạt 2 tỷ 502 triệu USD tăng 41,2% so với năm 2020 và đạt 147,1% kế hoạch năm. Thu hút đầu tư nước ngoài được 63 dự án, với số vốn là 514 triệu USD, bằng 175% về số dự án và 117% về số vốn đăng ký so với năm 2020, đạt 128,5% kế hoạch. Thu hút đầu tư trong nước 100 dự án, với số vốn là 12.700 tỷ đồng, đạt 127% kế hoạch.
Lĩnh vực văn hóa – xã hội đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Công tác phòng, chống dịch Covid-19 được tập trung chỉ đạo quyết liệt, chủ động, kịp thời với các giải pháp hiệu quả, cơ bản kiểm soát tốt dịch bệnh trong giai đoạn đầu và chuyển từ trạng thái “không Covid” sang “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát có hiệu quả đại dịch Covid-19”. Kịp thời đề ra các giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp trong sản xuất, kinh doanh và hỗ trợ người dân theo đúng quy định. Quốc phòng - an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức Đảng không ngừng được củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động. Khối đại đoàn kết toàn dân được giữ vững và phát huy. Việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh chuyển biến tích cực từ nhận thức đến hành động làm theo.
Chặng đường 92 năm qua, kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3/2/1930 cho đến nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tự hào về Đảng Cộng sản Việt Nam kiên cường, trung thành với Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lãnh đạo Nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, làm nên những kỳ tích vĩ đại trong lịch sử dân tộc, đóng góp xứng đáng vào phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, vì hòa bình và tiến bộ của nhân loại. Tự hào về Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại, mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân Việt Nam càng thấy rõ hơn trách nhiệm của mình, nguyện đi theo Đảng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, tiếp tục lãnh đạo Nhân dân ta đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, Đảng lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh theo con đường XHCN. Nhưng nổi bật nhất là sự lãnh đạo của Đảng trong nhiệm kỳ Đại hội XII (2016 - 2021) và năm đầu tiên thực hiện nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng (2021 - 2026) vừa qua, đã góp phần làm nên những kỳ tích, những yếu tố dấu hiệu tích cực trong thời kỳ mới của cách mạng Việt Nam. Từ thực tiễn sự nghiệp cách mạng của Nhân dân Việt Nam đã kiểm chứng: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, mãi mãi là sự lựa chọn lịch sử của dân tộc, của Tổ quốc và Nhân dân Việt Nam.