Ngày 3/3/2025, Bộ đội Biên phòng (BĐBP) tròn tuổi 66. Trong suốt chặng đường 66 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, dù có những tên gọi khác nhau, đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, chỉ huy của Bộ Quốc phòng hay Bộ Công an và trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào, BĐBP (tiền thân là lực lượng Công an nhân dân vũ trang) cũng luôn nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, phát huy bản chất tốt đẹp và truyền thống vẻ vang của Đảng, của dân tộc, của CAND và QĐND.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Đảng ủy Công an Trung ương, Bộ Công an, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, sự giúp đỡ tận tình của các cấp ủy Đảng, chính quyền và nhân dân địa phương, lớp lớp các thế hệ cán bộ, chiến sĩ BĐBP đã hết lòng tận trung với Đảng, tận hiếu với dân, khắc phục mọi khó khăn, bám trụ kiên cường nơi biên giới, luôn nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
1. Xây dựng phòng tuyến Nhân dân, tiễu phỉ, chống gián điệp, biệt kích, bảo vệ biên giới, giới tuyến quân sự tạm thời sau năm 1954 và các mục tiêu trọng yếu ở nội địa (1959 - 1965).
Từ ngày hòa bình lập lại ở miền Bắc sau năm 1954, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có lãnh thổ hoàn chỉnh, vấn đề bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia được đặt ra cấp thiết; thực hiện Hiệp định Giơ-ne-vơ, đất nước ta tạm thời chia làm 2 miền Nam - Bắc, trên tuyến quân sự tạm thời dài 102 km, phía bờ Nam, Việt Nam Cộng hòa cho chốt giữ 6 đồn, trạm và 4 đại đội Cảnh sát Ngụy. Phía bờ Bắc và địa bàn khu vực Vĩnh Linh ta bố trí tiểu đoàn 25 (tiền thân là Đại đội Công an bảo vệ giới tuyến, sau đổi phiên hiệu thành Tiểu đoàn 41) và đóng 12 đồn làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh giới tuyến. Các đơn vị Bộ đội, Công an Biên phòng, Cảnh sát vũ trang làm nhiệm vụ bảo vệ biên giới, bờ biển, giới tuyến tạm thời và nội địa dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đã nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, kịp thời phát hiện âm mưu thâm độc của địch và bọn phản cách mạng, dũng cảm chiến đấu đập tan mọi ý đồ, thủ đoạn phá hoại của kẻ thù. Tuy nhiên, công tác bảo vệ biên giới, bờ biển, giới tuyến quân sự tạm thời và nội địa có lúc, có chỗ chưa phối hợp chặt chẽ, tổ chức chỉ huy chưa thống nhất, thiếu nhịp nhàng, đồng bộ nên còn để sơ hở trong thực hiện nhiệm vụ.
Vì vậy, từ khi lực lượng CANDVT được thành lập đã dần khắc phục được những hạn chế trên; tuy trang bị còn rất thô sơ, thiếu thốn nhiều mặt, địa bàn hoạt động rộng, xa xôi hẻo lánh, thời tiết, khí hậu vô cùng khắc nghiệt nhưng cán bộ, chiến sĩ CANDVT đã đoàn kết một lòng, vượt qua muôn vàn khó khăn thử thách, nhanh chóng triển khai lực lượng, dựng đồn, lập trạm, vận động Nhân dân định canh, định cư, dựng làng, lập bản, xây dựng cơ sở chính trị, tuyên truyền, vận động đồng bào các dân tộc trên biên giới, xây dựng phòng tuyến Nhân dân, chiến đấu tiễu phỉ, chống gián điệp, biệt kích, thám báo, bảo vệ biên giới, bờ biển, giới tuyến quân sự tạm thời; bảo vệ Đảng, Nhà nước và các mục tiêu nội địa quan trọng thuộc 33 khu, tỉnh, thành miền Bắc và thủ đô Hà Nội. Tiêu biểu trên lĩnh vực xây dựng phòng tuyến nhân dân bảo vệ biên giới giai đoạn này có Anh hùng liệt sỹ Trần Văn Thọ, thuộc Đồn 5, CANDVT tỉnh Lai Châu cũ (nay là Đồn Biên phòng Leng Su Sìn, BĐBP tỉnh Điện Biên) đã nêu cao tấm gương “Trung với Đảng, tận tụy với dân” hết lòng vì hạnh phúc của Nhân dân. Anh đã sống mãi với đồng bào các dân tộc biên giới nói chung và đồng bào dân tộc Hà Nhì, tỉnh Điện Biên nói riêng. Tiêu biểu trên mặt trận tiễu phỉ, chống gián điệp, biệt kích, bảo vệ biên giới, bờ biển, giới tuyến là CANDVT các tỉnh: Lai Châu, Sơn La, Nghĩa Lộ (Yên Bái), Hà Giang, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình; các đồn CANDVT: Cửa Tùng, Cù Bai (Quảng Trị), Keng Đu (Nghệ An), Quang Chiểu, Pù Nhi (Thanh Hóa), Pha Long (Lào Cai), đại đội 1 cơ động (Hà Giang), đại đội 1 cơ động (Cao Bằng), Tiểu đoàn 12 (Trung đoàn 12, Đoàn Thanh Xuyên)... Tiêu biểu trên lĩnh vực bảo vệ Đảng, Nhà nước và nội địa là cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 600, Trung đoàn 254 và Anh hùng LLVTND Trần Văn Nhỏ (Trung đoàn 600)… Các tập thể, cá nhân anh hùng thời kỳ này mãi ngời sáng tấm gương hy sinh, tận tụy với dân, “Chỉ biết còn Đảng là còn mình”, coi “Đồn là nhà, biên giới là quê hương, đồng bào các dân tộc là anh em ruột thịt”, vươn lên hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
2. Bảo vệ biên giới, giới tuyến quân sự tạm thời, các mục tiêu trọng yếu ở nội địa, vừa tham gia đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ra miền Bắc và chi viện cho an ninh vũ trang miền Nam (1965 - 1975)
Đây là giai đoạn khốc liệt nhất của cuộc chiến tranh chống Mỹ - Ngụy giải phóng dân tộc, các đơn vị CANDVT tham gia chống chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân, hải quân của đế quốc Mỹ, làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn Lào; chi viện cho cách mạng miền Nam diệt ác, phá kìm, bảo vệ Trung ương Cục, bảo vệ vùng giải phóng; tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa, thực hiện lời kêu gọi kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đơn vị CANDVT thường xuyên bám trụ ở những điểm đánh phá ác liệt nhất của đế quốc Mỹ..., nhưng mọi cán bộ, chiến sĩ luôn kiên cường chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ra miền Bắc, chiến đấu bảo vệ biên giới, giới tuyến quân sự tạm thời, các mục tiêu quan trọng ở nội địa và chi viện cho lực lượng An ninh vũ trang miền Nam. Nhiều đồng chí đã không quản ngại hy sinh, gian khổ, vượt qua bom đạn cứu dân, cứu tài sản Nhà nước; tháo gỡ bom mìn, thủy lôi của địch, giữ vững an ninh trật tự khu vực biên giới và các mục tiêu nội địa, góp phần bảo vệ an toàn tuyến hành lang vận chuyển chi viện cho chiến trường miền Nam (đường Hồ Chí Minh trên bộ, trên biển). Từ năm 1965 đến năm 1975, toàn lực lượng trực tiếp bắn rơi 219 máy bay Mỹ, phối hợp với các đơn vị bạn bắn rơi 225 chiếc, bắn bị thương 128 chiếc, bắt sống nhiều giặc lái Mỹ và chi viện trên 5.000 cán bộ, chiến sĩ cho An ninh vũ trang miền Nam. Tiêu biểu là các đơn vị: Đồn Hiền Lương, Đồn Cù Bai (CANDVT tỉnh Quảng Trị); Đồn Cha Lo, Đồn Roòn, Đồn Đèo Ngang, Đại đội 1 (CANDVT tỉnh Quảng Bình); Đồn Cầu Treo, Đại đội 1 (CANDVT tỉnh Hà Tĩnh); Trạm Cửa Hội, Trạm Nậm Cắn (CANDVT tỉnh Nghệ An); Phân đội bảo vệ cầu Hàm Rồng (CANDVT tỉnh Thanh Hóa); Đồn Tràng Cát (CANDVT thành phố Hải Phòng), Đồn cảng Hòn Gai, Đồn cảng Cửa Ông (CANDVT tỉnh Quảng Ninh)... Ngoài ra, các đơn vị CANDVT Miền Bắc còn cử nhiều đội công tác đặc biệt sang giúp bạn Lào xây dựng cơ sở chính trị, vận động Nhân dân tham gia quân đội, ủng hộ cách mạng Lào và tổ chức tuyên truyền đặc biệt, tấn công chính trị, chiến đấu vũ trang phá nhiều cụm phỉ ở mặt trận K5 (đối diện tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh) và các tỉnh của Lào đối diện 3 tỉnh: Điện Biên, Sơn La, Quảng Trị...

Bộ đội Biên phòng tỉnh Bình Phước giúp nhân dân thu hoạch tiêu khi vào vụ
Trên chiến trường miền Nam, các chiến sĩ an ninh vũ trang đã bám dân, bám đất, diệt ác, phá kìm, bảo vệ Trung ương Cục, bảo vệ vùng giải phóng. Sau phong trào đồng khởi Bến Tre năm 1960, cách mạng miền Nam bước vào thời kỳ mới - thời kỳ đấu tranh chính trị kết hợp đấu tranh vũ trang; tháng 7 năm 1960, Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị số 01 thành lập “Ban An ninh miền”, trong đó nói rõ thành lập bộ phận “An ninh vũ trang”, lúc đầu là Đại đội 180, sau này phát triển thành Trung đoàn 180, làm nhiệm vụ bảo vệ Trung ương Cục ở chiến khu Đ, đến tháng 10/1960 chuyển về chiến khu C ở Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh. Lực lượng an ninh vũ trang miền Nam được giao nhiệm vụ bảo vệ vòng ngoài, đánh địch đổ bộ, càn quét, biệt kích, thám báo để bảo vệ các khu căn cứ và Trung ương Cục (cơ quan lãnh đạo đầu não của cách mạng miền Nam). Về tổ chức, ở cấp khu biên chế tiểu đoàn, ở cấp tỉnh biên chế đại đội an ninh vũ trang. Mặc dù phải sống và chiến đấu trong hoàn cảnh cực kỳ gian nan, ác liệt, với chiến thuật kìm kẹp “tìm diệt” vô cùng hiểm độc và tàn bạo của Mỹ - Ngụy, nhưng lực lượng an ninh vũ trang miền Nam luôn phát huy truyền thống sắt son, kiên trung với Đảng, với cách mạng, kiên trì, bền bỉ, bám đất, bám dân, trụ vững giữa lòng địch, xây dựng cơ sở, vận động và tổ chức quần chúng đấu tranh trực diện với kẻ thù, tiến hành công tác binh địch vận, phá vỡ nhiều tổ chức tình báo, mật vụ cài cắm ở các thôn ấp, hỗ trợ đắc lực cho các cuộc nổi dậy của quần chúng phá ấp chiến lược, mở rộng vùng giải phóng; táo bạo “xuất quỷ nhập thần” giữa sào huyệt địch, mưu trí tiến công phá hủy nhiều căn cứ quân sự, mục tiêu quan trọng của Mỹ, Ngụy và tiêu diệt bọn ác ôn, đầu sỏ, thám báo, biệt kích bảo vệ an toàn tuyệt đối Trung ương Cục, các khu ủy, tỉnh ủy, thành ủy ở miền Nam.
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, được sự chi viện của CANDVT miền Bắc, lực lượng an ninh vũ trang miền Nam đã phối hợp với các lực lượng khác chiến đấu bắt sống, tiêu diệt nhiều tên gián điệp, ác ôn nằm vùng khét tiếng, tiêu hao sinh lực địch và tham gia dẫn đường cho các cánh quân tiến vào giải phóng Sài Gòn, góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của cuộc Tổng tiến công, nổi dậy mùa xuân năm 1975 của quân và dân ta, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Tiêu biểu là các đơn vị an ninh vũ trang Sài Gòn - Gia Định, Sóc Trăng, Phú Yên, Quảng Nam, Thừa Thiên - Huế, Quảng Trị, Trung đoàn 180..., tấm gương hy sinh dũng cảm của các anh hùng liệt sĩ: Phạm Thành Lượng, Lê Hồng Nhị, Trương Thành Chỏi, Trần Thị Tính, Nguyễn Kim Vang, Nguyễn Đình Xướng, Đỗ Nam, Phan Ngọc Nhân, Ngô Tiến Dũng và các anh hùng: Nguyễn Thị Hồng Châu, Kiều Văn Niết, Nguyễn Văn Điện, Phạm Văn Vàng, Hoàng Thức Bảo, Trần Phong, Đỗ Văn Quả, Hồ Văn Lý, Cao Văn Trung, Lý Hữu Trí, Trần Văn Sỹ cùng nhiều đồng chí ưu tú khác vẫn sống mãi trong lòng Nhân dân cả nước và cán bộ, chiến sĩ BĐBP hôm nay.
3. Bảo vệ biên giới trên phạm vi toàn quốc, đấu tranh chống kế hoạch hậu chiến của địch, tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới, làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào và Campuchia (1975 - 1986)
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã mở ra giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam, giai đoạn cả nước cùng thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy đất nước ta đã hoàn toàn độc lập, thống nhất nhưng bọn phản động trong nước vẫn ráo riết cấu kết với chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch triển khai kế hoạch “hậu chiến”; lôi kéo người Việt Nam vượt biên, vượt biển di cư ra nước ngoài; sử dụng tàn quân FULRO, tổ chức lực lượng phản động xâm nhập vào biên giới, móc nối xây dựng cơ sở ngầm hòng chống đối chính quyền, chống phá lâu dài cách mạng Việt Nam và các nước Đông Dương…
Trước tình hình đó, toàn lực lượng đã tập trung cao độ, khẩn trương triển khai hệ thống đồn, trạm, vận động Nhân dân xây dựng phòng tuyến bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới, khẩn trương cùng các đơn vị của Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và Nhân dân cả nước quyết tâm đấu tranh chống kế hoạch “hậu chiến”, truy quét tàn quân FULRO, chống vượt biên, vượt biển trái phép, bóc gỡ cơ sở ngầm của địch, củng cố hệ thống chính trị cơ sở mới thành lập ở các tỉnh biên giới phía Nam; trực tiếp đương đầu với cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam (1975 - 1978), biên giới phía Bắc (1979) và chống “chiến tranh phá hoại nhiều mặt”, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở khu vực biên giới, biển đảo, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc. Phẩm chất anh hùng cách mạng, sự hy sinh quên mình vì chủ quyền lãnh thổ, an ninh BGQG của BĐBP tiếp tục tỏa sáng. Tiêu biểu là cán bộ, chiến sĩ các đồn biên phòng: Pò Hèn (Quảng Ninh), Pò Mã, Hữu Nghị (Lạng Sơn), Tà Lùng, Sóc Giang (Cao Bằng), Pha Long (Lào Cai), Lũng Làn (Hà Giang), Ma Lù Thàng (Lai Châu), Xà Xía, Phú Mỹ (Kiên Giang), Phân đội cơ động Long Bình (An Giang), Long Khốt (Long An), Mộc Bài, Xa Mát (Tây Ninh), Ya-K-La (Gia Lai - Kon Tum)... và các Anh hùng liệt sĩ: Lê Đình Chinh, Đỗ Sĩ Họa, Đỗ Chu Bỉ, Lộc Viễn Tài; Nông Văn Giáp, Lê Minh Trường, Hoàng Kim Long...
Thực hiện chủ trương của Đảng “giúp bạn là tự giúp mình”, BĐBP đã triển khai 9 trung đoàn (e2, e4, e6, e8, e10, e11, e14, e20, e180) phối hợp với các đơn vị Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, kề vai sát cánh cùng lực lượng vũ trang và Nhân dân Campuchia đấu tranh chống Khơme đỏ, đánh đổ chế độ diệt chủng ở Campuchia, giúp bạn bảo vệ chủ quyền biên giới trên các tuyến và cử nhiều đội công tác giúp Nhân dân Lào đấu tranh chống phỉ và bọn phản động, góp phần giành lại độc lập, chủ quyền, củng cố hòa bình đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc, tình cảm tốt đẹp trong lòng Nhân dân Lào và Nhân dân Campuchia anh em.
Có thể khẳng định, trong bất cứ hoàn cảnh nào, cán bộ, chiến sĩ CANDVT và BĐBP ngày nay luôn phát huy bản chất cách mạng, nêu cao truyền thống mưu trí, dũng cảm trong chiến đấu, bền bỉ, sắc bén trong đấu tranh, linh hoạt, sáng tạo trong công tác, gắn bó máu thịt với nhân dân, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ tài sản, tính mạng của nhân dân. Đồng thời, giữ gìn và phát huy tốt phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của người quân nhân cách mạng, phẩm chất cao quý của “Bộ đội Cụ Hồ”, góp phần quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia, xứng đáng với truyền thống đơn vị 2 lần được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Đại đội Công an giới tuyến gồm 100 cán bộ, chiến sĩ lựa chọn từ những người ưu tú trong các đại đội 340, 348 của bộ đội địa phương huyện Cam Lộ, Gio Linh, Vĩnh Linh và một số cán bộ Quân đội, Công an tỉnh Quảng Trị - Lịch sử Đảng bộ Bộ đội Biên phòng (1959-2009). Nxb CAND, Hà Nội 2010, tr33.