Thu ngân sách của tỉnh tăng hơn 24 lần so với năm đầu tái lập: Những năm đầu tái lập tỉnh vô vàn khó khăn, thu ngân sách của tỉnh rất thấp, chỉ đạt 176 tỷ đồng. Sau 20 năm tái lập tỉnh, cơ cấu thu ngân sách chuyển biến tích cực theo hướng tăng nguồn thu từ doanh nghiệp, cá nhân sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và thuế thu nhập cá nhân. Năm 2016, thu ngân sách của tỉnh ước đạt 4.150 tỷ đồng, tăng hơn 24 lần so với năm 1997.
Phát triển công nghiệp được ưu tiên đầu tư, bước đầu có hiệu quả rõ nét: Những năm đầu mới tái lập tỉnh, Bình Phước là tỉnh thuần nông. Cơ cấu kinh tế chủ yếu là nông - lâm nghiệp. Sản xuất công nghiệp chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong nền kinh tế (chiếm khảng hơn 2,4% GRDP của tỉnh), chủ yếu là chế biến và khai thác mỏ với 31 doanh nghiệp tư nhân. Năm 1997, giá trị sản xuất công nghiệp chỉ đạt gần 123 tỷ đồng.
Qua 20 năm tái lập, Bình Phước hiện có 13 khu công nghiệp, trong đó có 8 khu công nghiệp đang hoạt động, 2 khu đang đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, 3 khu đang hoàn chỉnh thủ tục đầu tư. Các khu công nghiệp đang hoạt động có gần 800 ha diện tích đất để cho thuê. Hiện nay đã cho thuê hơn 530 ha, trong đó có 60 dự án trong nước và 107 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn đăng ký gần 3.400 tỷ đồng và hơn 1 triệu USD.
Chính sách thu hút đầu tư có nhiều đổi mới, quan tâm nhiều hơn đến lợi ích của doanh nghiệp và Nhân dân. Đến nay, Bình Phước có khoảng 5.200 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh với tổng số vốn đăng ký gần 37.000 tỷ đồng. Toàn tỉnh có 159 dự án FDI, với tổng số vốn đăng ký trên 1.153 triệu USD, tạo việc làm cho trên 142 ngàn lao động trong và ngoài tỉnh. Kéo theo sự phát triển của các khu công nghiệp là bộ mặt nông thôn, đô thị thay đổi; các hoạt động kinh doanh, dịch vụ phát triển; nhiều khu dân cư mới được xây dựng đã trở nên đông đúc. Ước cuối năm 2016, giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt gần 30.000 tỷ đồng, tăng gấp 245 lần so với năm tái lập tỉnh.
Lễ khởi công khu liên hợp công nghiệp và đô thị Becamex - Bình Phước
Tăng mạnh tỷ trọng ngành chăn nuôi trong cơ cấu ngành nông - lâm nghiệp và hình thành một số vùng sản xuất hàng hóa tập trung: Ở năm đầu tái lập, trong cơ cấu kinh tế của tỉnh, nông - lâm nghiệp chiếm tỷ trọng 70%. Sau 20 năm, cơ cấu kinh tế nông - lâm - thủy sản chuyển dịch đúng định hướng, đến nay giảm gần một nửa, chỉ chiếm 38,5%. Cơ cấu nội ngành phát triển tích cực, đúng hướng, tăng tỷ trọng trong lĩnh vực chăn nuôi. Sản xuất từng bước gắn với chế biến và xuất khẩu, hình thành một số vùng sản xuất hàng hóa tập trung.
Việc chuyển đổi cơ cấu ngành trồng trọt được tỉnh quan tâm, ưu tiên tập trung trồng các loại cây có giá trị kinh tế cao như: Cao su, điều, cà phê, hồ tiêu, ca cao, cây ăn quả. Bước đầu đã hình thành các vùng chuyên canh cây điều ở Bù Đăng, Bù Gia Mập; cao su ở Bình Long; hồ tiêu ở Lộc Ninh. Các vùng chuyên canh trồng trọt từng bước được cơ giới hóa. Ngày càng có nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ, năng suất cao, chất lượng tốt, như: Mô hình canh tác cây điều, kết hợp với nuôi heo ở xã Đoàn Kết, huyện Bù Đăng; mô hình trồng cây ca cao xen điều trên địa bàn các huyện Đồng Phú, Bù Đăng, Bù Gia Mập và thị xã Phước Long; mô hình canh tác và chế biến hồ tiêu theo hướng hữu cơ sinh học tại huyện Lộc Ninh.
So với năm đầu tái lập tỉnh, diện tích cây điều đã tăng lên gấp hơn 5 lần; cây tiêu tăng gấp hơn 4 lần; cây cao su tăng gấp hơn 2 lần. Các mặt hàng xuất khẩu của tỉnh như cao su, hạt điều, hạt tiêu, linh kiện điện tử, mặt bàn gỗ đã có mặt trên 50 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy sản trước đây chỉ là nhỏ lẻ, theo hộ gia đình, đến nay đã phát triển tập trung quy mô lớn, hiện đại, với hình thức công nghiệp và bán công nghiệp gia tăng về số lượng và tính cạnh tranh trên thị trường.
Mô hình nuôi heo công nghiệp tại Hớn Quản
Hạ tầng giao thông phát triển vượt bậc, lưu thông hàng hóa và việc đi lại của Nhân dân ngày càng thuận tiện: Khi tái lập tỉnh, hệ thống giao thông rất khó khăn, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và nhu cầu đi lại của Nhân dân. Quốc lộ 13 và 14, đường tỉnh quản lý xuống cấp trầm trọng; các tuyến đường huyện, xã chủ yếu là đường đất “nắng bụi, mưa lầy”. Đầu năm 1997, Bình Phước chỉ có 103 tuyến đường với chiều dài hơn 1.200 km, tỷ lệ đường cấp phối sỏi đỏ và đường đất chiếm gần 84%.
Với chủ trương: Phát triển hệ thống hạ tầng giao thông là cơ sở, là tiền đề cho sự phát triển kinh tế - xã hội, sau 20 năm tái lập, hạ tầng giao thông của tỉnh Bình Phước đã có bước phát triển vượt bậc, từng bước hiện đại. Hiện nay, toàn tỉnh đã có trên 500 tuyến đường với chiều dài hơn 8.000 km, trong đó quốc lộ 13, 14 đã nhựa hóa 100% và hiện đang tiếp tục nâng cấp mở rộng; đường tỉnh nhựa hóa đạt gần 99%. 100% số xã đã có đường nhựa đến trung tâm; hệ thống giao thông kết nối với các tỉnh giáp biên nước bạn Campuchia, các tỉnh trong vùng trọng điểm kinh tế phía Nam. Hạ tầng giao thông hiện đại đã tạo thuận lợi cho việc đi lại, lưu thông hàng hóa, thu hút đầu tư, tạo liên kết giữa các vùng miền, thúc đẩy kinh tế, văn hóa - xã hội của tỉnh phát triển.
Lãnh đạo Tỉnh ủy, HĐND tỉnh, UBND tỉnh cùng lãnh đạo các sở ngành, huyện Lộc Ninh và nhà đầu tư tiến hành nghi thức cắt băng thông xe Dự án BOT Quốc lộ 13 An Lộc – Chiu Riu
Điện lưới quốc gia đã về hầu khắp các khu dân cư, thôn, ấp: Giai đoạn đầu khi mới tái lập tỉnh, cơ sở vật chất ngành điện rất khó khăn, thiếu thốn, lưới điện cũ nát, chắp vá, thường xuyên quá tải và có sự cố kỹ thuật. Năm 1997, toàn tỉnh chỉ có 441 km đường dây hạ thế, 436 km đường dây trung thế, 324 trạm biến áp phân phối điện; điện thương phẩm chỉ đạt trên 34,8 triệu KWh; doanh thu đạt trên 22,3 tỷ đồng. Toàn tỉnh chỉ có gần 17% hộ được sử dụng điện.
Đến cuối năm 2016, Bình Phước có 01 trạm biến áp 220KV; 7 trạm biến áp 110KV; 3.360 km đường dây hạ thế; 3.190 km đường dây trung thế; gần 6.100 trạm biến áp phân phối điện; điện thương phẩm đạt gần 1.088 triệu KWh, gấp hơn 31 lần so với năm 1997. Doanh thu đạt gần 2.000 tỷ đồng, gấp hơn 80 lần so với năm 1997. Cả tỉnh có gần 250 ngàn khách hàng dùng điện và tỷ lệ số hộ có điện đạt trên 98%, gấp 6 lần so với năm tái lập tỉnh.
Nhờ sự phát triển của kinh tế, đời sống Nhân dân đã được cải thiện. Trong năm đầu mới tái lập, thu nhập bình quân đầu người của tỉnh chỉ đạt 2,6 triệu đồng/người/năm. Đến nay, kinh tế phát triển theo hướng tích cực đã làm thay đổi bộ mặt nông thôn và thúc đẩy quá trình đô thị hóa, nâng cao chất lượng cuộc sống của Nhân dân, đặc biệt là người dân ở khu vực biên giới, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Cuối năm 2016, thu nhập bình quân đầu người ước đạt hơn 42 triệu đồng
/người/năm, tăng hơn 16 lần so với năm đầu tái lập tỉnh.