Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” đã để lại nhiều bài học quý báu cho cách mạng Việt Nam. Trong đó, bài học về tinh thần chủ động để giành thắng lợi quyết định trong chiến dịch Điện Biên Phủ đến nay vẫn còn nguyên giá trị đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Trước hết, Đảng ta đã chủ động đánh giá, dự kiến chính xác tình hình, lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo, kịp thời luôn giành thế chủ động, từng bước chuyển hóa lực lượng là vấn đề có ý nghĩa quyết định đến tạo ra thời cơ giành thắng lợi trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Sau Cách mạng tháng Tám, thấy rõ âm mưu của thực dân Pháp, cùng với sự nỗ lực đàm phán nhằm kéo dài thời gian để chuẩn bị, Bộ Chính trị và Bác Hồ đã sớm xác định đường lối kháng chiến “toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”.
Đặc biệt, ta đã chủ động xây dựng, phát huy nội lực làm cơ sở để từng bước tạo ra thời cơ giành thắng lợi trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. Từ đầu năm 1947, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở lại Việt Bắc, xây dựng nơi đây thành căn cứ địa kháng chiến. Trong tiến trình của cuộc kháng chiến có sự chuyển hóa về so sánh lực lượng, ta dựa vào núi rừng Việt Bắc càng đánh càng mạnh, càng thắng lớn và từng bước giành quyền chủ động; còn địch ngày càng bị động đối phó và càng thất bại.
Đầu năm 1947, thực dân Pháp đã tăng cường lực lượng mở cuộc phản công và tiến công ồ ạt thực hiện phương châm “đánh nhanh, thắng nhanh”. Đầu tháng 10/1947, địch huy động 12 nghìn quân tiến công lên Việt Bắc. Nhận rõ âm mưu của địch, Thường vụ Trung ương Đảng đã ra chỉ thị “Phải phá tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi bộ đội, dân công, nhân dân ra sức tiêu diệt địch. Từ đó, quân và dân Việt Bắc, cùng sự phối hợp chặt chẽ của chiến trường trên cả nước, đã tiến hành chiến dịch phản công và giành thắng lợi to lớn. Từ đây, thực dân Pháp phải chuyển sang đánh kéo dài với ta.
Từ năm 1948, Trung ương Đảng đã chủ trương phát triển mạnh mẽ chiến tranh du kích ở vùng địch tạm chiếm, đồng thời tiến hành một loạt các chiến dịch nhỏ và vừa nhằm tiêu diệt từng bộ phận địch. Đến đầu năm 1950, cuộc kháng chiến của nhân dân ta phát triển mạnh mẽ, tình hình thế giới, khu vực có chuyển biến quan trọng, Trung ương đã chỉ thị cho Liên khu Việt Bắc chuẩn bị cho chiến trường Đông Bắc để khi có điều kiện sẽ mở một chiến dịch lớn. Ngày 16/9/1950, Chiến dịch Biên giới bắt đầu và kết thúc thắng lợi vào ngày 14/10. Đến thời điểm này, thực dân Pháp đã mất quyền chủ động trên chiến trường Bắc Bộ. Tiếp đó, Trung ương Đảng đã chủ trương mở các chiến dịch Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào và đẩy mạnh tiến công địch ở vùng địch hậu.
Tháng 9/1953, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp bàn kế hoạch quân sự Đông Xuân 1953 - 1954. Sau đó, ta mở 5 cuộc tiến công chiến lược buộc địch phải phân tán lực lượng và tăng cường lực lượng xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh. Ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ. Thời gian đầu ta thực hiện phương châm “Đánh nhanh, thắng nhanh”. Tuy nhiên, khi đánh giá tình hình để bảo đảm chắc thắng ta đã chủ động chuyển sang phương châm “Đánh chắc, tiến chắc”. Đây là sự chuyển hướng đúng đắn bảo đảm cho Chiến dịch toàn thắng, kết thúc cuộc kháng chiến trường kỳ, vẻ vang của dân tộc ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng Quân ủy thông qua kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953 - 1954 và Chiến dịch Điện Biên phủ 1954. (Ảnh tư liệu)
Tuy nhiên đánh giá tình hình thực lực của hai bên, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã ra quyết định khó khăn: dừng trận đánh, kéo pháo ra, chuyển phương án từ "đánh nhanh, thắng nhanh sang đánh chắc, tiến chắc" nhằm bảo toàn lực lượng và cắt đường tiếp viện của địch, đẩy địch vào thế cô lập.
Với tinh thần tất cả dồn sức cho Điện Biên Phủ, trong chiến dịch, nhân dân các địa phương đã đóng góp hàng chục nghìn tấn gạo, hàng nghìn tấn thực phẩm, trên 26.400 lượt dân công, gần 21.000 xe đạp thồ, hàng trăm ngựa thồ...
Đồng bào Tây Bắc giao cả những rẫy lúa, nương ngô cho các đơn vị thu hoạch, để bộ đội ăn no, đánh thắng. Nghệ thuật chiến tranh nhân dân đã được đẩy lên một tầm cao mới góp phần hóa giải khó khăn thành thuận lợi.
Ngày 13/3/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ chính thức mở màn.
Trong đợt 1 (từ 13-17/3/1954), quân ta đã mưu trí, dũng cảm tiêu diệt gọn cứ điểm Him Lam và Độc Lập, bức hàng cứ điểm Bản Kéo, phá vỡ hệ thống phòng ngự trên hướng Bắc và Đông Bắc của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Hai tiểu đoàn tinh nhuệ nhất của địch bị tiêu diệt gọn, một tiểu đoàn khác và 3 đại đội ngụy Thái tan rã. Một số lượng lớn pháo 105 ly và pháo cối 120 ly của địch bị ta phá hủy hoàn toàn, hầu hết các máy bay chiến đấu trong vùng lòng chảo đều bị ta tiêu diệt.
Trong đợt 2: Từ ngày 30/3 đến ngày 30/4/1954, quân ta đồng loạt tiến công các cứ điểm phía Đông phân khu trung tâm. Ta đã tiêu diệt khoảng 5.000 tên địch, trong số đó gồm 4 tiểu đoàn và 9 đại đội (chiếm khoảng ½ tổng số quân địch ở phân khu Bắc và phân khu trung tâm); khống chế các khu vực còn lại trong tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, kiểm soát sân bay Mường Thanh, hạn chế tiếp viện của địch cho tập đoàn cứ điểm.
Tại đợt 3: Từ ngày 1-7/5/1954, quân ta đánh chiếm các cứ điểm còn lại ở phía Đông, diệt một số cứ điểm phía Tây và mở đợt tổng công kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
17 giờ 30 phút ngày 7/5/1954, Tướng De Castries cùng toàn bộ Bộ Tham mưu của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị bắt sống. Ngay trong đêm đó quân ta tiếp tục tiến công phân khu Nam, đánh địch tháo chạy về Thượng Lào, đến 22 giờ toàn bộ quân địch đã bị bắt làm tù binh.
Chiến dịch Điện Biên Phủ đánh dấu một mốc son chói lọi trong lịch sử hào hùng của dân tộc, mở ra một giai đoạn phát triển mới của cách mạng nước ta. Thắng lợi đó là kết quả tất yếu của sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo, kịp thời của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự nỗ lực, cố gắng, sẵn sàng hy sinh của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong xây dựng, phát huy nội lực, tranh thủ tối đa ngoại lực từng bước tạo ra thời cơ để giành thắng lợi quyết định. Mặc dù, đã trải qua 70 năm, song bài học về tinh thần chủ động để giành thắng lợi trong chiến dịch Điện Biên Phủ vẫn còn nguyên giá trị.
Trên mặt trận văn hóa - giáo dục ta đã chú trọng xây dựng yếu tố chính trị tinh thần cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân. Thời gian đầu kháng chiến, không phải cán bộ, đảng viên hay người dân nào cũng hiểu về kháng chiến. Từ thực trạng trên, Đảng xác định công tác chính trị tư tưởng và văn hóa - giáo dục cần được tăng cường hơn lúc nào hết. Kháng chiến càng tiến tới, mặt trận văn hóa - giáo dục càng phải được đẩy mạnh, nhất là vào giai đoạn kết thúc, khi quân và dân ta bước vào trận quyết chiến ở Điện Biên Phủ. Nhờ đó, đã góp phần quan trọng vào việc tuyên truyền, giác ngộ cán bộ, chiến sĩ và mọi tầng lớp nhân dân về ý nghĩa lịch sử, tính chất chiến lược của Chiến dịch Điện Biên Phủ, quy tụ được nhân dân trong khối đại đoàn kết, đồng tâm hiệp lực, dồn sức cho Chiến dịch.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thưởng huy hiệu cho các chiến sĩ lập nhiều chiến công trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. Ảnh: TTXVN
Bên cạnh đó, ta cũng chủ động xây dựng tiềm lực kinh tế và hậu phương vững chắc tạo nguồn vật chất bảo đảm cho kháng chiến. Đảng chủ trương xây dựng một nền kinh tế dân chủ nhân dân có khả năng tự cấp, tự túc, vừa đáp ứng nhu cầu thiết yếu cho kháng chiến, vừa cải thiện đời sống bộ đội và nhân dân. Nhờ đó, sản xuất nông nghiệp ngày một phát triển, công nghiệp quốc phòng được chú trọng. Với chính sách kinh tế kháng chiến, nguồn vật chất hậu cần bảo đảm cho lực lượng vũ trang ngày càng dồi dào, đáp ứng tốt yêu cầu tổ chức các chiến dịch theo những quy mô khác nhau. Nhất là các chiến dịch từ năm 1953 đến năm 1954, đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Với tinh thần chủ động, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đã phát huy sức mạnh tổng hợp, làm lên thắng lợi vĩ đại của Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã ghi dấu vàng chói lọi trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, để lại những bài học vô giá cho chúng ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay, nhất là bài học về tinh thần chủ động tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức để đưa đất nước phát triển nhanh, mạnh theo định hướng xã hội chủ nghĩa như mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh và nguyện vọng của toàn dân tộc./.